Tôi dẫn cả gia đình về quê nghỉ mát cũng là để xem xét bán căn nhà do bố ruột tôi để lại. Nhưng kỳ lạ là từ ngày về quê, sáng nào cứ đúng 4 giờ sáng, con trai của tôi lại bật dậy...
Tôi dẫn cả gia đình về quê nghỉ mát cũng là để xem xét bán căn nhà do bố ruột tôi để lại. Nhưng kỳ lạ là từ ngày về quê, sáng nào cứ đúng 4 giờ sáng, con trai của tôi lại bật dậy...
Trời đổ nắng từ sớm. Con đường làng sau cơn mưa đêm còn lấm chấm vũng nước sáng lóa như những ảnh gương, phản chiếu mái ngói rêu phong của căn nhà bố tôi để lại. Tôi đưa cả gia đình về quê vào đúng mùa lúa bắt đầu đòng đòng, vừa để nghỉ mát, vừa tính toán chuyện bán căn nhà cũ. Đã đến lúc, tôi tự nhủ. Những tháng ngày bươn chải trên thành phố cho tôi cái nhìn thực dụng: một mảnh đất nằm im ở quê, bụi bặm và lặng thinh, bằng mấy năm tiền học của con, bằng cả một kế hoạch đổi đời.
“Anh
quyết thật à?” Vợ tôi hỏi lúc chúng tôi đứng trước cánh cổng tre kẽo
kẹt. Mấy nhánh dâm bụt già sì vẫn còn đỏ những bông nhỏ. Bên trong, sân
gạch phẳng như tấm chiếu, giếng nước tròn trặn soi bóng mấy tầng mây.
“Ừ. Trước sau gì cũng phải quyết.” Tôi đáp, rồi lại chột dạ khi nhìn qua khung cửa gỗ. Bàn thờ bố vẫn ở đó, bát hương cũ sẫm màu, khung ảnh ông nghiêm nghị như còn dõi theo con. Bố mất đã sáu năm, mọi thứ trong nhà dường như ngưng đọng ở một mùa đông. Cái áo bông ông hay khoác còn treo trong buồng, mùi quế khô thoang thoảng như thở dài.
Hai đứa con trai tôi nhảy nhót ngoài hiên, vừa chạm chân đất đã gào “đi câu cua, đi tắm sông!”. Còn con út – con bé Mít mới ba tuổi – lặng lẽ vòng quanh giếng, ngón tay chấm vào mặt nước, vẽ những vòng tròn mỏng như tơ nhện. Nó ngước nhìn bờ tường phía sau nhà, cái vách gạch xây nối từ bếp ra chuồng gà, ánh mắt dừng lại lâu và là lạ. Tôi tưởng nó nhìn con thằn lằn.
Đêm đầu tiên, cả nhà trải chiếu ngủ dưới căn buồng bố tôi từng ngủ. Tôi mệt rũ, vừa đặt lưng đã chìm vào giấc. Nhưng lúc bị đánh thức, tôi nghe tiếng cánh cửa buồng hé nhẹ, rồi tiếng chân nhỏ xíu lạch bạch trên nền gạch, nhanh mà đều, như nhịp thở của ai đó quen thuộc với con đường.
Tôi vội bật dậy. Vợ tôi còn mơ màng. Tôi thấy bóng con Mít nhỏ lao qua thềm, biến mất ngoài sân như một con mèo trắng. Tôi giật mình, xỏ vội đôi dép tổ ong chạy theo.
Bốn giờ sáng. Làng đang trong khoảng lưng lửng bàng bạc giữa đêm và rạng, nơi tiếng gà gáy còn bập bõm, nơi sương bám vào tóc như bụi đường. Con bé rẽ qua bờ rào, chạy men theo con đường đất quanh làng, đôi chân nhỏ bé nhưng không hề lảo đảo. Nó chạy một vòng, qua bến nước, qua gốc si, qua đình làng, chừng như nhớ từng gờ đất. Rồi nó về, dừng ngay trước vách phía sau nhà, ngẩng đầu cười khanh khách, chỉ tay vào mảng tường vôi sứt sẹo:
“Ông ơi, sáu mươi lăm rồi nha!”
Tôi rùng mình. “Sáu mươi lăm” là cái gì? Ông nào? Tôi bế thốc nó lên, thấy người nó thơm mùi lúa non và mồ hôi ngai ngái. Nó dụi đầu vào cổ tôi, ngủ thiếp đi như vừa làm xong một việc phải làm.
Sáng ra, vợ tôi nói chắc là con bé mơ ngủ. Tôi chặc lưỡi. Nhưng lạ là đêm thứ hai, rồi đêm thứ ba, cứ đúng bốn giờ, con bé lại bật dậy như có ai gọi tên, chạy một vòng quanh làng, về đứng trước vách, tay chống nạnh, cười phá lên, rồi lẩm bẩm: “Ông bảo đừng đếm thêm, vừa tròn sáu mươi lăm.”
Tôi bắt đầu thấy câu chuyện trượt khỏi sự hợp lý thường ngày. Tôi đem chuyện hỏi ông Lục – hàng xóm sát vách, người gầy nhẳng, cặp mắt sâu như mắt cá trê. Ông Lục nhíu mày, rít một hơi thuốc lào, khói phả ra trắng mịt.
“Ngày còn sống, ông cụ nhà cậu dậy đúng bốn giờ. Không khác đi một phút. Ông ấy chạy quanh làng, rồi về đứng ngay chỗ đó – cái vách nối bếp với chuồng gà. Ổng đếm mái ngói. Cứ đếm rồi lại gõ, mỗi sáng một tiếng vào cái đà gỗ. Sáu mươi lăm mái. Hôm ổng đếm được sáu mươi lăm là hôm ổng xây thêm một hàng ngói nữa, gọi là tròn vẹn. Tôi vẫn nghe tiếng gõ lóc cóc mỗi sáng. Ổng làm vậy suốt đời, như người ta tụng một bài kinh.”
“Tại sao ông ấy đếm?” Tôi hỏi.
Ông Lục nhún vai: “Chắc để nhớ. Hoặc để giấu. Ông cụ đỡ đẻ, chống lũ, giữ tiền hụi, bao công chuyện. Có khi người giàu giấu của cũng nên. Vách sau nhà ấy… xây dày bất thường.”
Tôi đứng trước vách lúc chiều xuống, ngón tay sờ vào bề mặt lồi lõm của vôi vữa. Đúng là dày. Gạch nung cỡ cũ, trát lẫn rơm, bề mặt điểm mấy vệt thâm như dấu tay ai vuốt. Bên trong nghe tiếng rỗng rỗng khi gõ. Con Mít theo sau tôi, tủm tỉm cười như biết bí mật mà người lớn đần độn chưa đoán nổi.
Vợ tôi lo: “Anh đừng suốt ngày nhìn tường nữa. Trẻ con nhiều trò ngộ nghĩnh lắm.” Rồi cô ấy khẽ nói: “Nhưng… nếu thật có gì, mở ra đi. Anh đã định bán nhà mà, biết hết rồi hãy quyết.”
Tôi lưỡng lự. Mở ra là phá. Phá là không còn đường lui. Tôi nghĩ đến cái bàn thờ trong buồng, nghĩ đến giọng bố tôi trầm khàn, “Cái gì cất là cất cho người, không cất cho gạch.” Ông hay nói vậy, mỗi lần đem về một cái bọc ai gửi nhờ. Tôi thở dài. Đêm thứ tư, tôi đặt bên vách một chiếc ghế gỗ, ngồi im, chờ lúc bốn giờ.
Tôi không gọi con Mít dậy. Tôi muốn biết cái gì đánh thức nó. Từ rất xa, có tiếng chuông chùa khẽ rung, không phải tiếng gõ canh dõng dạc, mà lơi như một hơi thở. Ở đâu đó trong vách, nghe như tiếng “tích tắc” của một chiếc đồng hồ rất già, chậm mà dai dẳng. Rồi bốn giờ chín phút, một luồng gió lạnh từ khe cửa bếp thổi qua, làm vách tường rung nhẹ. Con Mít vùng dậy. Nó không khóc, cũng không gọi, chỉ tung mền chạy. Tôi đuổi theo, vẫn thôi miên bởi một cảm giác mơ hồ: bố tôi đang mở cửa buồng, xỏ đôi dép, bước ra thềm, nhìn trời, rồi chạy.
Sáng ấy, tôi cầm búa.
Ông Lục giúp tôi. Vợ tôi đứng bếp, tay nắm chặt quai nồi. Tôi bảo con trai đưa Mít sang nhà dì Ba chơi. Tôi kê cái búa vào ngay chỗ con bé thường chỉ. Nhát đầu, vôi vữa rơi bụi mù. Nhát thứ hai, một miếng gạch vỡ, lộ ra lớp ván gỗ phía trong. Lợi dụng khe hở, tôi luồn ngón tay, sờ trúng sợi dây thừng đã mục. Tôi kéo. Một tấm gỗ trượt xuống như một cái cửa trượt cũ kỹ. Bên trong là một khoảng rỗng tối đen, phả ra một mùi ngai ngái của gỗ ẩm và hồi quế.
Tôi đưa đèn pin vào. Có một chiếc hộp gỗ mít màu sậm, bề mặt khắc những nét chữ nguệch ngoạc tôi thuộc như thuộc chính nét chữ của mình – chữ của bố tôi. Ngay trên nắp, một dòng: “KHI NGHE TIẾNG ĐỒNG HỒ CÂM.” Tôi cắn môi. Chiếc đồng hồ câm ư? Tôi áp tai vào vách: không còn tiếng tích tắc nữa. Hóa ra cái tiếng tí tách kia là từ một chiếc đồng hồ quả lắc treo sau vách – kim chắc đã đứng mãi, rồi chỉ còn rung theo những luồng gió cổ.
Tôi mở hộp. Bên trong là một máy cát-sét màu đen, loại có nút nhấn hơi nhám, và một bọc giấy dầu buộc dây dù. Một nhãn nhỏ dán trên bọc, viết bằng mực tím: “Cho thằng Hai – mày.” Hai là tên thứ của tôi trong nhà.
Tôi run tay nhấn nút “play”. Tiếng rè rè trôi ra trước, như tiếng ai đẩy một cánh cửa kẹt, rồi giọng bố tôi vang lên, khàn, chậm, từng chữ như đi qua những răng cửa đã rụng:
“Con à, nếu con nghe được thì vách đã mở. Đừng bán gì vội. Cái nhà này trông cũ nhưng không cũ đâu. Nó là con đường.”
Ông dừng, ho sù sụ, rồi tiếp: “Ngày xưa lũ về, người ta trèo lên mái, leo lên nhau mà sống. Tao với chú Lục đào một phòng lũ phía trong cái vách. Không phải hầm, không phải ổ trốn, mà là chỗ để thở. Người đi qua nhà này, khi trời giận, có chỗ để ngồi, để chờ. Cũng trong vách có mấy cái hũ. Mỗi hũ một tên. Tiền vàng của thiên hạ, người ta gửi mà không dám nhận lại. Cả đời tao giữ, đem trả dần. Nhưng vẫn còn. Mày mà bán nhà, phải trả hết. Không trả thì… mày ế ẩm với tao.”
Tôi bật cười mà nước mắt trào, hình dung gương mặt ông nhăn lại, đôi mắt hiền mà lấp lánh giễu cợt. Ông lúc nào cũng thế: tiếng đùa chòng ghẹo dội vào những việc nặng như khiêng đá.
“Có một hũ tao ghi tên người đàn bà đi qua đời mày,” ông nói tiếp, giọng bỗng mềm như vải xô. “Nó là mối nợ của tao. Cái ngày mày quyết định theo nó lên thành phố, tao hoảng quá, cầm nhà này đi vay. Để mày có tiền khởi đầu. Đến lúc mày quay về, tao trả xong, mà ai cũng quên. Nhà này có giấy mới. Nhưng tao không muốn cái nhà thành cửa hàng bán sỉ bán lẻ. Tao muốn nó mở ra. Mở cho người ta tới, mở cho tụi nhỏ chạy. Nếu con gái út của mày dậy đúng bốn giờ, chạy một vòng quanh làng rồi về cười trước vách, thì nghĩa là cái đồng hồ câm đã gọi nó. Mở. Rồi đếm.”
Đoạn băng im một chút, rồi ông thở hắt: “Sáu mươi lăm mái ngói, sáu mươi lăm hũ. Đừng đếm thêm.”
Tôi tắt máy. Căn bếp bỗng toang ra một khoảng yên lặng lạ lùng. Tôi nhìn vợ. Cô ấy không nói, chỉ đặt bàn tay lên cánh tay tôi. Trong mắt cô ấy, tôi thấy một đốm sáng vừa bùng, như lúc thắp một que diêm.
Sợi dây dù trên bọc giấy dầu sột soạt dưới tay tôi. Tôi tháo ra. Bên trong là một xấp giấy gói kỹ: mấy tờ bằng khoán cũ thời hợp tác, vài giấy biên nhận viết tay, một cuốn sổ nhỏ bìa mốc và… một chùm chìa khóa cũ bằng đồng xỉn, mỗi chìa đều buộc một mảnh giấy ghi tên. Có “BẢY NHÀ CHUNG”, “LÝN – CHỢ”, “DÌ BA MẮM”, “ĐỨC LÒ RÈN”… Mảnh giấy cuối cùng, chữ nhỏ và nghiêng: “CON VỪNG – CHÁU GÁI ÔNG.” Tôi chết sững. Vừng là tên ở nhà của con Mít, chỉ có ông nội gọi như vậy, vì lúc mới sinh nó bé như hạt vừng.
“Cho con đó,” vợ tôi nói khe khẽ.
Tôi gật, nhưng bàn tay run bắn. Chúng tôi dỡ tiếp ván, lách qua khoảng rỗng, bước vào một không gian hẹp và dài, như một cái hành lang. Mùi quế và hồi hắt lên đậm hơn, lẫn mùi đất ẩm lâu năm. Bóng đèn pin quét qua một dãy hũ sành to bằng bắp chân người lớn, miệng bịt kín bằng nút đất sét, mỗi hũ đều dán một dải giấy mỏng viết tên bằng mực tím đã nhòe. Trên tường, vết phấn trắng chấm chấm thành hàng, đủ đúng sáu mươi lăm dấu. Ở cuối hành lang, một bức tường gạch khác, nhưng giữa bức tường là một cái khung gỗ nhỏ, treo một tấm bảng xơ xác chữ: “PHÒNG LŨ – MỞ CỬA KHI NGHE TIẾNG CHUÔNG.”
Tiếng chuông. Tôi nhớ tiếng chuông mơ hồ lúc bốn giờ. Có thể là chuông chùa, có thể là cái chuông cũ treo đâu đó trong vách, gió thổi làm rung. Bố tôi đã đặt cơ chế gì đó? Tôi không biết. Nhưng tôi biết có sáu mươi lăm hũ. Và tôi biết những con chữ mờ trên nhãn hũ kia là những dòng thời gian chưa khép.
Tin nhanh trong làng lan đi nhanh hơn tiếng gà trưa. Chiều ấy, mấy người già, mấy người đàn bà đi chợ về, cả bọn trẻ con bày thành một hàng ngoài sân, nhìn vào khoảng vách mở như nhìn một sân khấu. Ông Lục đứng chống nạnh, cười khì: “Tôi bảo mà.” Dì Ba – người bán mắm đầu ngõ – khóc thút thít khi nhận lại cái vòng tay bạc đã đen xỉn, khắc mấy chữ “B-B” cũ xì: “Cái này mẹ tui gởi ông cụ nhà anh từ hồi lụt tám bảy. Ổng bắt tui tới lấy hoài mà tui ngại. Trời ơi…”
Một người đàn ông trạc năm mươi, tay chai, cúi rạp người nhận một cuốn sổ nợ, lật ra thấy dòng chữ “Mượn gạo tháng ba, đã trả tháng bảy”, anh ta cười xấu hổ rồi nhập nhằng “cái này để con cháu tui nó học chữ liêm sỉ”. Mỗi cái hũ mở ra là một câu chuyện, một nhát dao chẻ vào cái quá khứ quánh đặc để nó chảy ra sáng sủa. Tôi thấy gương mặt bố tôi hiện lên lẫn trong khói bếp, trong giọt nước mắt, trong cả tiếng cười lồng lộng của lũ trẻ. Đến hũ thứ sáu mươi tư, vợ tôi cầm cái nhãn lên, giọng khàn đi: “Tên em.” Cô nhìn tôi, lúng túng như bị bắt gặp bí mật của chính mình.
Trong hũ ấy là một chiếc khăn voan cũ gấp nhỏ, chèn cùng một tấm ảnh, đã bạc màu, chụp một cô gái trẻ đứng bên bờ ruộng, tóc buộc sau gáy, mặc chiếc áo hoa luôn tay. Mặt cô gái giống vợ tôi một cách kỳ lạ – có lẽ là mẹ cô. Mảnh giấy gói kèm ghi mấy chữ: “Của con Hạnh – mẹ con Liên, gửi nhờ tao để sau này cho nó. Mẹ nó chết sớm, tao quên mất.” Liên là tên vợ tôi. Nước mắt cô ứa ra, ướt nhẹp đầu ngón tay. Mọi thứ trong nhà reo lên thổn thức.
Còn một hũ cuối. Nhãn ghi “CON VỪNG.” Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn con Mít – nó vừa được dì Ba bưng về – đang đứng chống hông như bà cụ non, mắt dõi vào cái hũ như dõi vào an ủi của đêm. Tôi mở. Bên trong là một chiếc hộp gỗ thông nhỏ với một chiếc chìa khóa lồng qua sợi dây đỏ, và một tờ giấy gấp tư.
Tờ giấy mở ra. Nét chữ của bố tôi. Không mực tím nữa, mà là bút bi xanh.
“Cho con bé Vừng,” ông viết, “Nếu ông không còn, mà con vẫn nhớ đường chạy quanh làng vào rạng sáng – nghĩa là con nghe được tiếng nhà. Con giữ chiếc chìa khóa này. Khi nào con đủ cao để chạm tới tay nắm cửa tủ gỗ đặt trong phòng thờ, con mở nó. Bố con sẽ đọc hộ con.”
Tôi
ngơ ngẩn. Cánh cửa tủ gỗ vuông vức kê dưới bàn thờ bố tôi vốn là tủ
đựng áo bông của ông, không khóa. Tôi chưa bao giờ thấy nó khóa. Nhưng
hôm đó, tôi đẩy – nó không nhúc nhích. Tìm quanh, dưới mái bạt, sau
khung ảnh, tôi mới thấy có một lỗ chìm bằng đầu ngón tay ấn vào. Rồi
nghe tiếng “cạch” khẽ. Cả nhà im phăng phắc như đang đứng trước một trò
ảo thuật mà cũng là một phép thử.
Con Mít ngắm chìa, cười tít: “Con mở được hông?” Tôi gật. Nó với lên, chân kiễng. Tôi đưa tay đỡ, hai ba một. Cánh tủ mở ra, rất nhẹ. Bên trong có một phong bì nâu niêm kín sáp đỏ, có đóng dấu của xã, ngày tháng cách đây bốn năm. Trên phong bì đề: “Di chúc bổ sung – Người thừa kế và nhiệm vụ.”
Vợ tôi tái mặt. Tôi kéo ghế, đặt phong bì xuống bàn. Con Mít vòng tay sau lưng như học sinh sắp đọc bài. Tôi xé sáp. Tờ giấy trắng mịn, chữ đánh máy, bên dưới có chữ ký tròn của bố tôi, bên cạnh là chữ ký của ông bí thư: “Tôi, tên là…, lập văn bản này để bổ sung cho di chúc lập ngày… Về việc căn nhà và thửa đất số… Tôi quyết định như sau: Toàn bộ căn nhà và thửa đất giữ nguyên hiện trạng, không chia, không bán. Giao quyền sử dụng và quản lý cho cháu gái ruột là… (tên ở nhà: Vừng), sinh ngày… là con của ông Hai… với sự giám sát của ba mẹ cháu cho tới khi cháu đủ mười tám tuổi. Mục đích sử dụng: Nhà trú lũ và phòng sách miễn phí cho trẻ em trong xóm. Tiền mặt liên quan đến tài sản ước tính khi phát mại (nếu có) sẽ được dùng hoàn toàn để bồi hoàn tài sản cho các hũ ký gửi còn lại.”
Tôi đọc chậm, như cầm một vật nặng mà sợ làm rơi. Gió chạy qua sân, mấy chiếc lá ổi chao nhẹ. Vợ tôi ôm lấy con Mít. Con bé giương mắt: “Con có nhà hở ba?” Tôi không trả lời ngay. “Không, con có trách nhiệm,” vợ tôi thì thầm vào tai con. Con bé cười, không hiểu, nhưng cười long lanh như viên bi lăn dưới nắng.
“Cụ nhà anh tinh lắm,” ông Lục xoa tay, giọng như vừa uống rượu cúc. “Đứa trẻ nghe tiếng nhà. Làng này không ai bán nổi nó đâu.”
Tôi gấp di chúc lại, đặt lên bàn thờ. Bức ảnh bố tôi như trượt ra gần, nếp nhăn nơi khóe mắt ông như co lại thành nụ cười. Tôi ngồi xuống bậc thềm, đưa tay che mắt. Bỗng dưng bao nhiêu ý định gọn gàng dang dở của tôi vỡ ra như một món đồ chơi bị mở tung. Tôi thấy sự tính toán của mình tầm thường, như cục phấn trắng trước vách sẫm. Bố tôi đã sống một đời đếm mái ngói – không phải để biết giàu nghèo, mà để biết đã có bao nhiêu lần trời gầm mà mái vẫn che.
Những ngày sau đó, nhà tôi rộn như hội. Mấy đứa trẻ hàng xóm kéo tới xin sách. Dì Ba đội rổ mắm qua, đặt xuống gốc ổi, nói “cho tụi nhỏ mồi cơm, đọc sách khô cổ.” Mấy anh thanh niên dỡ nốt mấy tấm ván còn lại, quét mạng nhện, kê thêm mấy chiếc ghế. Tôi và vợ đi từng nhà trả lại những gì cần trả. Cái vòng bạc cũ, tờ giấy nhật trình nợ, cuốn sổ học chép. Có người già cười toét miệng, có người khóc, có người tay vẫn run khi nhận tờ giấy “hụi” cha anh đã chìm đâu đó trong trận lụt ba mươi năm trước. Mỗi lần trao là như mỗi lần tháo một mảnh vách phòng kín được mở ra cho gió vào.
Con Mít, như mọi khi, bốn giờ sáng dậy, chạy một vòng quanh làng, về đứng trước vách, cười khanh khách. Nhưng thay vì chỉ tay và nói “sáu mươi lăm”, nó đặt lòng bàn tay lên những dấu phấn trắng trên tường, đếm như đếm những ngôi sao trước khi ngủ. Tới dấu phấn cuối cùng, nó tự ôm lấy mình, như ôm ông nội.
Một buổi chiều, tôi dọn lại đống giấy bọc, thấy lặng một tờ hóa đơn ngân hàng cũ, ghi rõ: “Khoản vay cầm cố tài sản nhà đất… giải ngân ngày… người vay… – lý do: hỗ trợ con lập nghiệp tại thành phố.” Bên dưới là mấy dòng chữ ông viết thêm: “Đã hoàn trả, cảm ơn đời.” Tôi đặt tờ giấy trước bát hương. Tôi biết ơn. Tôi xấu hổ. Tôi thấy, bỗng nhiên, căn nhà không còn là tài sản nữa, mà là một câu trả lời mà tôi phải học thuộc lòng như bài tập đọc đầu tiên của cuộc đời.
Tối ấy, cả gia đình ngồi ngoài hiên, đom đóm chớp lập lòe trong lùm chuối. Vợ tôi kể chuyện cho con nghe. “Ngày xưa ông nội con hứa sẽ làm một phòng sách.” Cô nói, giọng nhẹ như gió: “Mỗi khi cúp điện, ông vẫn đốt đèn dầu đọc thơ. Ông nói chữ nghĩa là mái ngói thứ sáu mươi sáu mà người ta thiếu.” Tôi bật cười: “Nhưng ông bảo đừng đếm thêm.” Vợ tôi nhìn tôi, mỉm cười: “Cho trẻ con thì được.”
Hôm sau, tôi chạy ra huyện, làm thủ tục xin phép mở phòng đọc sách cộng đồng. Cô cán bộ trẻ nhìn tôi, hỏi gọn: “Tên phòng?” Tôi ngẩn ra. Trong đầu hiện lên đủ thứ: “Nhà trú lũ”, “Vách mở”, “Sáu mươi lăm”. Rồi tự nhiên tôi thấy hình ảnh bố tôi giữa mưa, đôi vai gầy mà vững, tay gõ vào đà gỗ từng tiếng lóc cóc. Tôi viết: “Phòng sách Sáu Mươi Lăm.”
Buổi khai trương, trời nắng vừa. Bàn thờ bố được lau chùi sáng bóng. Con Mít mặc chiếc váy trắng, tóc buộc hai bên, tay cầm đôi chũm chọe đồ chơi. Người làng đến khá đông, ai cũng tò mò, cũng hồi hộp. Tôi đặt di chúc bổ sung trong một khung kính nhỏ, treo cạnh bảng nội quy mượn sách. Mấy đứa nhỏ chạy chân trần quanh sân, tiếng cười đuổi theo nhau đến tận góc trời.
Cô giáo làng đến, tặng một thùng sách cũ. Ông Lục đem qua một cái chuông đồng cũ, thân gỉ xanh mốc, bảo “Chuông này ông cụ mày treo trong vách đấy, tôi gỡ ra lau rồi.” Tôi treo cái chuông lên hiên, cao hơn đầu người lớn một chút. Con Mít ngó lên, mắt lấp lánh. Tôi bế nó lên, nó vươn tay chạm, chuông rung “keng” một tiếng trong veo, như mở toang mọi ngăn buồng im lặng. Mấy người già bỗng rưng rưng. Tôi nghe rõ tiếng mẹ tôi ngày xưa, “Bố mày cả đời gõ chuông gọi người.”
Tối muộn, khi người ta đã về, con Mít lom khom đem tới cho tôi một hòn sỏi. “Ông kêu con đưa ba,” nó nói. Tôi bật cười, xoa đầu nó: “Ông nào.” Nó nhún vai, rồi ngồi xuống mân mê hòn sỏi. Hòn sỏi có vệt trắng chạy ngang, như một vệt phấn. Nhìn kỹ, đó là một mẩu ngói cũ. Ở mép mảnh ngói, có khắc một dấu nhỏ, hình như… chữ cái đầu tên tôi.
Tôi mang mảnh ngói lên phòng thờ, đặt cạnh khung di chúc. Tôi thắp một nén nhang. Khói hương mỏng dần rồi quấn lại thành một đường cong như cái tay cầm của chiếc chuông. Trong mùi hương, tôi nghe như tiếng bố tôi nói, lần này rất gần: “Được rồi. Ngừng đếm đi.”
Tôi tưởng câu chuyện đã khép, nhưng căn nhà vốn có cái thói xưa: khi vừa nghĩ đã khép, nó mở một cánh lối khác như người làng mở một đường ngang qua ruộng. Đêm trước ngày chúng tôi trở lại thành phố, con Mít lại dậy lúc bốn giờ, chạy vòng làng. Tôi chạy theo, lòng bình thản hơn, như chạy theo một nghi lễ. Nó về, đứng trước vách, nhưng không cười. Nó áp tai vào tường, trầm ngâm, rồi nói rõ từng chữ: “Ông bảo: Lần cuối.”
Tôi căng tai. Trong vách, tiếng gió như một người già đang đọc một bài kinh lặng. Tôi ghé sát hơn. Từ rất xa, như từ lòng đất, có tiếng lạch bạch của nước. Phòng lũ – tôi nghĩ, cơn mưa chiều nay chắc thấm đâu đó. Tôi lấy đèn pin, soi vào bức tường cuối hành lang – nơi treo bảng “PHÒNG LŨ – MỞ CỬA KHI NGHE TIẾNG CHUÔNG.” Cái bảng xưa rung rung, như thật sự đang đợi tiếng chuông nào đó, không phải chuông đồng trên hiên.
“Ba ơi,” con Mít nói, “Ông bảo gõ ba cái.”
Tôi luống cuống. Gõ bằng gì? Tôi cầm hòn đá nhỏ, gõ lên bảng. “Cộc.” Tiếng thứ nhất khô. Tiếng thứ hai vang hơn. Tiếng thứ ba thì… bức tường hé ra. Không hẳn là một cánh cửa. Chỉ là một mảng gạch tụt vào, để lộ một khoảng đen. Tôi đèn pin. Bên trong không rộng, chỉ là một hộc nhỏ vừa đủ một người ngồi co gối. Trên vách, vệt nước màu vàng lẫn đen chứng tỏ nhiều mùa lũ đã đi qua nơi này. Trên nền đất, một cái rương gỗ – không lớn, không nặng – cũ đến mức chạm vào bột gỗ tróc ra như mưa bụi. Mặt rương khắc một chữ: “MÁI.” Chữ viết tay, những đường rạch cứng tối như năm tháng.
Tôi mở rương. Không vàng, không bạc. Chỉ có một chiếc áo bông của bố tôi gấp rất ngay ngắn, một cuốn sổ tay, một cây thước gỗ khắc những vạch nhỏ, và… một bức thư đặt trong phong bì trắng, trên thư đề: “Gửi thằng Hai – và cả cái nhà này.”
Tôi mở. Bút mực xanh, chữ run run: “Con à. Tao biết mày sẽ mở tới đây nếu không còn cách nào khác để đếm. Cái nhà này không phải để bán, vì nó là mái. Mái là cái nằm lên đầu người ta lúc nguy nan. Người ta có thể đổi gạo lấy tiền, đổi vòng bạc lấy nợ, nhưng không ai đổi mái lấy chút giàu. Tao đã từng đổi mái của tao – ngày mày lấy vợ, tao cầm nhà để có tiền cho mày. Đổi xong tao biết ơn đời vì đời cho tao chuộc lại. Nhưng tao sợ – sợ một ngày mày quên. Nên tao giấu cái phách của mái vào đây: cái áo tao, cái thước tao đo và chấm phấn hằng sáng, cái sổ tao ghi những tên người đã từng ngồi trong phòng lũ, từng nắm tay tao trong nước lạnh. Nếu phải bán, bán cái gì cũng được, đừng bán mái. Nếu ai ép, đưa cái thước cho nó, bảo nó tự đo cái đầu nó dài mấy ngón – nếu dài bằng thước này thì cứ bán. Thước này không đo đầu người, mà đo lòng người. Nếu lòng nó dài bằng thước của tao – cứ bán. Còn không – đưa nó ra đình làng, đọc tên tao trên bảng liệt kê người đã giữ chuông. Chuông sẽ gõ.”
Tôi ôm cái thước gỗ, thước nhỏ và nhẹ, vạch khắc dày và sâu, mùi gỗ hăng, có chỗ màu sẫm như bàn tay ai cầm mồ hôi. Tôi mở cuốn sổ. Không phải sổ nợ. Là sổ tên những người từng trú mưa trú lũ trong nhà, từ cách đây gần bốn mươi năm. Mỗi tên là một câu ngắn: “Bà Tư – đêm lũ tháng bảy, mang theo cháu ngoại”, “Thằng Quý – đêm nước dâng, ôm con chó”, “Cô Hạnh – chạy vào nhà trong cơn mưa, ướt như lá lúa, để lại khăn voan.” Tôi đọc tên tới cuối sổ thì thấy một dòng mới nhất, viết cách ngày ông mất vài tháng: “Con Liên – vợ thằng Hai – mang bầu con gái, ghé trú mưa, ngủ thiếp dưới giường, ông nghe nó cười trong ngủ.” Tôi giật mình. “Liên ơi…” Tôi gọi vợ. Cô chạy đến, tay vẫn dính bột bánh. Cô đọc, rồi im thật lâu, rồi khóc mà cười: “Hóa ra, lần em về ra mắt, trời mưa, em ngủ co ro ở đây… Bố… Bố đã nghe tiếng em cười trong ngủ.” “Bố chọn tên Vừng cho con,” tôi nói, chợt hiểu. Vợ tôi gật đầu, môi mấp máy mà không thành tiếng.
Tôi cẩn trọng đặt lại mọi thứ vào rương, chỉ giữ cái thước. Tôi ngước nhìn con Mít. Nó bước tới, rướn người chạm ngón tay vào vệt phấn trắng thứ sáu mươi lăm. Rồi nó xòe bàn tay nhỏ, đặt lên trái tim: “Ông nói: đủ rồi.”
Chúng tôi trở lại thành phố trong một buổi sáng trong veo. Con đường ra quốc lộ rợp bóng keo. Tôi ngồi ghế lái, tay vẫn cảm giác được độ nhám của chiếc thước gỗ đang nằm trong túi áo sơ-mi. Con Mít ngủ ngoan trong ghế sau. Vợ tôi dựa đầu bên cửa kính, mắt nhìn ra hàng rào dâm bụt và cái chuông đồng lấp lánh xa dần. Tôi biết con đường trước mặt dài, những tháng ngày kiếm sống vẫn dữ dội. Nhưng trong lòng tôi có một mái ngói mới – không phải để đếm, mà để ở.
Tối đó, khi mở cánh cửa căn hộ nhỏ, đặt vali xuống, tôi chợt thấy trên bàn ăn có một mảnh giấy vuông màu nhạt. Không phải của ai trong nhà để lại, vì chúng tôi đều đi cùng. Trên giấy chỉ có một dòng chữ rất ngắn, viết bằng chữ viết tay run run – run như nét chữ của người già: “Đã đủ sáu mươi lăm. Đừng đếm thêm.”
Tôi đứng sững. Tay tôi siết chặt chiếc thước gỗ trong túi, nghe rõ mùi gỗ lâu năm. Tôi không sợ. Tôi bỗng cười – một nụ cười bật ra như tiếng chuông đồng bị gió làm rung – vì hiểu: cái nhà thật sự đi theo mình. Không phải bằng gạch và ngói, mà bằng một phép đo vô hình bố đã để lại: cái thước đo lòng. Và mỗi khi đầu óc tôi lại bày ra những con số, những “bán – mua – lời – lỗ”, cái thước sẽ gõ nhẹ vào đà gỗ trong đầu tôi một tiếng “lóc cóc”, nhắc tôi rằng mái của mình chỉ đứng vững khi trên đó có tiếng chân trẻ chạy lúc bốn giờ sáng, có tiếng cười phá lên trước vách, có những cái tên trong cuốn sổ trú lũ, có cả một ông già vừa nghiêm vừa hóm hỉnh, xếp những ngày tháng của mình thành sáu mươi lăm dấu phấn trắng, rồi nói: “Đủ rồi, con.”
Đêm ấy, con Mít không dậy lúc bốn giờ nữa. Nó ngủ sâu, tay ôm chiếc thước gỗ như ôm một chiếc xe đạp đồ chơi. Trước bình minh, thành phố im ắng một cách lạ lùng. Và tôi – nằm trong căn hộ chật hẹp giữa tầng tầng nhà khối – bỗng nghe rõ rành tiếng chuông đồng đâu đó trong trí nhớ, vang một tiếng thanh và dài, như một cái vẫy tay, như một lời hẹn: “Khi nào con quên, mở vách.”